Đề thi HSG Văn Quốc gia hay nhưng có những thử thách nằm ngoài cả văn chương
VOV.VN - Cô Trịnh Thu Tuyết nhận định: “Đề văn năm nay hay thì thật hay, nhưng vẫn là thử thách với không ít học trò và oái oăm thay là những thử thách có thể nằm ngoài văn chương”.
Hôm nay (25/12), diễn ra kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia THPT 2020. Các thí sinh tham dự môn thi Ngữ văn làm bài trong vòng 180 phút, hình thức thi tự luận.
Đề thi gồm 1 câu nghị luận xã hội (8 điểm) và 1 câu nghị luận văn học (12 điểm).
Đánh giá về đề thi học sinh giỏi Quốc gia môn Ngữ văn, TS Trịnh Thu Tuyết, giáo viên Ngữ văn tại Hà Nội cho rằng, nhìn tổng thể, đề thi học sinh giỏi Quốc gia năm học 2020 – 2021 có một “tứ” hay: câu nghị luận xã hội khẳng định vai trò sâu xa, cội nguồn, gốc rễ của các giá trị, đặc biệt là giá trị văn hóa, tinh thần thuộc về dân tộc. Câu nghị luận văn học đặt ra vấn đề về giá trị phổ quát lớn lao mang tầm nhân loại của văn chương đồng thời cũng là một giá trị thuộc bình diện văn hóa, tinh thần.
“Thực chất, câu nghị luận xã hội sẽ là một trong số rất nhiều yếu tố quan trọng giúp đạt được những giá trị mà câu nghị luận văn học đặt ra – bởi như chính Nguyễn Minh Châu đã nói: “Hãy đi đến tận cùng của cái ta, ta sẽ gặp được nhân loại”.
Câu nghị luận xã hội yêu cầu học sinh suy ngẫm và bàn luận về ý kiến của Xuân Diệu: “Không đứng vào dân tộc, như cây không đứng vào đất, làm gì có sức chắc chắn để phát triển cho đến tận cùng”. Đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như ngày nay, đây là vấn đề thiết thực, cần thiết với nhận thức và nhân cách cá nhân, đặc biệt quan trọng với sự phát triển của mỗi con người cũng như toàn thể xã hội.
Khi khái niệm “dân tộc” gắn liền với những giá trị truyền thống tốt đẹp thì vấn đề đặt ra trong đề bài càng thiết thực, nhất là trong thời kì hội nhập, xu hướng sùng ngoại ở các giá trị vật chất hay tinh thần đang có khuynh hướng cực đoan, thái quá, làm băng hoại các giá trị nền tảng của dân tộc. Đề bài hoàn toàn có thể giúp học trò mở ra những suy ngẫm tích cực và mới mẻ về điểm giao cắt, thậm chí tương đồng của các giá trị, từ dân tộc, truyền thống tới quốc tế, hiện đại và tìm ra hướng đi cho mình”, cô Tuyết phân tích.
Cô Trịnh Thu Tuyết cũng cho rằng, từ rất lâu, khi đề cập tới những khái niệm “dân tộc” hay “quốc tế”…, sự khác nhau giữa các dân tộc là bản sắc văn hóa, nhưng có một vài người lại khẳng định, điểm khác nhau giữa các dân tộc là đẳng cấp (level), ví dụ chúng ta thường tự hào về tình yêu quê hương đất nước, lòng nhân ái “thương người như thể thương thân”, cách sống thủy chung tình nghĩa “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”…, nhưng làm gì có dân tộc nào trên thế giới không có những tình cảm ấy, chỉ khác về mức độ nhận thức, về trình độ văn minh trong các hình thức biểu hiện. Cô Trịnh Thu Tuyết cho rằng đây là ý kiến đúng, nhưng cần bổ sung thêm một điều rằng các dân tộc đều có những phẩm chất, những tình cảm… mang nhân tính như nhau, khác nhau là những đối tượng cụ thể.
“Ví dụ, tôi yêu quý, trân trọng một trong những giá trị văn hóa phi vật thể của đất nước tôi, đó là tiếng Việt – “tiếng Việt” là cụ thể một đối tượng trong lòng yêu nước của tôi/ cũng như vậy, một người nước ngoài sẽ yêu ngôn ngữ, tiếng nói của họ, như một cách thể hiện lòng yêu nước – vậy lòng yêu nước là điểm chung của mọi con người sống trên thế giới này, còn yêu những giá trị nào của đất nước mình thì là cái riêng, cái cụ thể của đối tượng.
Nhận thức được điều này, học trò sẽ không cực đoan trong những quan niệm sống hiện đại, không sai lầm khi đối lập, loại trừ các giá trị.
Điều tôi hơi gợn trong câu nghị luận xã hội chính là cách diễn đạt khá “nghệ sĩ” của Xuân Diệu ở cụm từ: “… đứng vào dân tộc” – đây cũng là chi tiết chúng ta nên quan tâm khi chọn ngữ liệu bàn luận, ví như trong một đề thi tuyển sinh lớp 10 chuyên văn gần đây, đề đưa ra quan niệm khá cực đoan, siêu hình khi dùng hai khái niệm “nhan sắc” và “đức hạnh” để phân loại hai yếu tố không thể phân loại trong thơ là hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng”, cô Tuyết nói.
TS Trịnh Thu Tuyết cũng đánh giá câu nghị luận văn học đề cập tới một vấn đề không mới, không khó của lý luận văn học là “tính nhân loại” của văn học. Hai quan niệm của Nam Cao và Nguyễn Minh Châu đều khá thống nhất, dẫu một người lập ngôn “đanh thép”, người kia “khát khao, trăn trở”! Hầu như mọi nhà văn, khi đặt bút viết, đều nghĩ tới đang bắt đầu cho một “tác phẩm để đời”…, và niềm khao khát hướng tới một tác phẩm “vượt lên tất cả mọi bờ cõi và giới hạn”, một tác phẩm trở thành “văn học của cả thiên hạ, của cả loài người” là khát khao của Vũ Như Tô, của Hộ, của mọi nghệ sĩ trên đời.
Cô Tuyết đánh giá: “Vấn đề đặt ra trong đề bài là hay, là muôn đời, nhưng học trò cần xử lý vấn đề như thế nào cho khỏi rơi vào sự nhàm chán muôn đời, triển khai hệ thống ý như thế nào để vượt thoát khỏi khuôn mẫu lý thuyết, đưa bài văn của các em chạm vào được thực tế “cây đời” của văn chương bây giờ, đây là những khó khăn không hề nhỏ.
Thêm nữa, một tác phẩm “của cả thiên hạ, của cả loài người” không chỉ đề cập tới những chủ đề muôn thuở của loài người mà còn cần đạt tới một giá trị lớn lao, đích thực, về nội dung – đặt ra được vấn đề cho loài người, cho thiên hạ, vì văn chương không phải chỉ kể hay hát … cho người ta vui, buồn, mà còn phải khơi thức, bắt người ta suy nghĩ, tìm kiếm, đối chứng, phản biện…; về nghệ thuật – phải đạt tới ngưỡng của cái đẹp… Hai yêu cầu đó cần tầm vóc, và cũng lại là đẳng cấp của chính cộng đồng và cá nhân trong cộng đồng đó. Đây là vấn đề tôi đã đề cập tới trong câu nghị luận xã hội ở trên.
Tôi cho rằng đề văn năm nay, hay thì thật là hay, nhưng vẫn là thử thách với không ít học trò và oái oăm là những thử thách có thể nằm ngoài văn chương”, cô Trịnh Thu Tuyết nhận định./.