Thông tư 30: Để giáo viên không cảm thấy “quá tải”
VOV.VN -Việc thực hiện Thông tư 30 cần được nhìn nhận khách quan dựa trên việc không để giáo viên cảm thấy "quá tải" khi đánh giá, nhận xét học sinh tiểu học.
Trước ngày 28/5 tới, phòng GD-ĐT các quận, huyện và thị xã; các trường học phải có báo cáo về Sở GD-ĐT Hà Nội về việc thực hiện đánh giá học sinh Tiểu học theo Thông tư 30.
Thông tư 30 của Bộ GD-ĐT bắt đầu áp dụng từ tháng 10/2014 với việc đổi mới việc đánh giá học sinh Tiểu học không phụ thuộc hoàn toàn vào điểm số.
Theo đó, trong đánh giá thường xuyên, giáo viên nhận xét bằng lời nói trực tiếp với học sinh hoặc viết nhận xét vào phiếu, vở của học sinh về những kết quả đã làm được hoặc chưa làm được. Những lời nhận xét động viên, khích lệ, biểu dương, khen ngợi kịp thời đối với từng thành tích, tiến bộ giúp học sinh tự tin vươn lên...
Trước 28/5, các trường phải báo cáo về không chấm điểm cấp Tiểu học
Việc đánh giá bằng điểm số chỉ được thực hiện thông qua bài kiểm tra giữa và cuối kỳ học. Học sinh sẽ được tổng hợp đánh giá trên cơ sở theo dõi mức độ nhận thức, kỹ năng và điểm số của các bài kiểm tra cuối kỳ.
Thông tư 30 được kỳ vọng sẽ đem lại bước ngoặt trong đánh giá học sinh từ nặng về kiến thức sang kỹ năng, năng lực, nhận thức… Hội Khoa học Tâm lý Giáo dục Việt Nam đã tiến hành khảo sát ở một số tỉnh, thành phố về thực trạng thực hiện đánh giá học sinh tiểu học theo Thông tư 30 của Bộ GD-ĐT.
PGS.TS Vũ Trọng Rỹ, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Tâm lý Giáo dục Việt Nam cho biết: Qua phỏng vấn gián tiếp bằng phiếu hỏi và tọa đàm trực tiếp 630 giáo viên tiểu học ở 5 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Dương, Hòa Bình, Phú Thọ, Đà Nẵng cho thấy, có 95,2 % số giáo viên được hỏi đều khẳng định thực hiện đánh giá học sinh theo Thông tư 30 giáo viên vất vả hơn so với trước đây, nhất là với giáo viên ở vùng nông thôn.
582 trong số 630 giáo viên cho rằng, phải mất quá nhiều thời gian cho việc ghi nhận xét học sinh. Thời gian trung bình trong ngày dành cho nhận xét học sinh là 92,47 phút.
Đáng chú ý, một số thầy giáo, cô giáo cho rằng, việc nhận xét kết quả học tập của học sinh khá khó vì thiếu kỹ năng diễn đạt, tìm từ ngữ sát hợp với từng trường hợp cụ thể để không bị trùng lặp. Dẫn đến hiện tượng một số giáo viên tìm cách đối phó như đưa ra các loại ký hiệu thay cho điểm số như bông hoa, ngôi sao, mặt người cười, mếu...
Nhiều giáo viên chỉ có lời nhận xét chung chung áp dụng cho nhiều trường hợp, kiểu như "em học tốt", "em cần cố gắng hơn"... mà không chỉ ra được tốt ở chỗ nào và cần cố gắng ở chỗ nào.
Trước tiên, sự bất cập trong việc nhận xét, đánh giá học sinh là ở chỗ, không phải ngày nào giáo viên cũng có đủ thời gian để ghi nhận xét tất cả học sinh trong lớp. Đặc biệt là tại các trường học ở tỉnh, thành phố lớn như: Hà Nội, TP HCM, mỗi lớp học thường rất đông (từ 50 đến 60 học sinh).
Áp lực về thời gian, công việc khiến trung bình mỗi ngày, giáo viên chỉ nhận xét được từ 1/3 đến 1/2 học sinh trong một lớp (bao gồm cả học sinh có năng lực học tập Giỏi, Trung bình và Yếu) cho cả hai môn học Toán và Tiếng Việt. Những học sinh còn lại không có nhận xét của giáo viên trong ngày hôm đó.
Mặc dù những học sinh chưa được nhận xét của ngày hôm nay sẽ được giáo viên nhận xét tiếp ở những ngày tiếp theo trong tuần nhưng sự quay vòng nhận xét phải từ 2-3 ngày sau mới đến lượt các em. Như vậy, việc nhận xét, đánh giá kiến thức, kỹ năng cho 1 học sinh sẽ không liên tục.
Vì không có nhiều thời gian nhận xét cho một lớp học có quá đông học sinh nên đa phần giáo viên nhận xét học sinh theo cách viết một cách ngắn gọn, chung chung như: Con làm bài tốt, cô khen, con có tiến bộ, con viết ẩu, chưa cẩn thận, con cần cố gắng hơn, con cần làm lại bài, con cần chú ý cách diễn đạt … Trong phần nhận xét môn Toán, nhiều giáo viên chỉ ghi: đ (đúng) hoặc s (sai).
Những lời nhận xét trên khiến nhiều người, đặc biệt là phụ huynh hoàn toàn “mơ hồ”, khó hiểu khi nhìn lại sách vở của con. Riêng với môn Toán học, với cách thức nhận xét, tích đúng hoặc sai không thể đánh giá đúng hết được từng trình độ, năng lực của học sinh theo nhiều dạng bài tập như: tính theo công thức, tính nhanh, tìm x, bài giải, làm toán theo nhiều phép tính…
Còn đối với môn Tiếng Việt, cách thức nhận xét như trên của giáo viên không thể đánh giá, nhận xét trung thực và khách quan hết được năng lực đọc hiểu, viết chính tả, luyện từ và câu, kiến thức ngữ pháp, cách hành văn… của học sinh.
Phần đánh giá, nhận xét toàn bộ quá trình học tập của tất cả học sinh trong lớp chỉ được giáo viên ghi cụ thể hơn trong phiếu hoặc sổ học bạ khi hết học kỳ nhưng cũng chỉ mang tính chung nhất như: Hoàn thành hoặc Không hoàn thành.
Với cách nhận xét, đánh giá một cách chung chung thì học sinh chưa đủ hiểu và chưa biết sai ở đâu, cụ thể ở công đoạn nào để chỉnh sửa nên có thể sẽ lặp lại những lỗi đã sai ở những bài đã làm trước đó.
Không chấm điểm học sinh cấp Tiểu học: Lo lắng trước những đánh giá
Đối với giáo viên chủ nhiệm trực tiếp giảng dạy Toán và Tiếng Việt thì việc nhận xét là như vậy. Còn với những giáo viên giảng dạy các môn học Năng khiếu như: Thể dục, Họa, Nhạc đang bị rơi vào tình trạng “rối bời” vì quản lý quá nhiều sổ sách khi phải ghi nhận xét cho từ 750 đến 1.000 học sinh của 15 đến 20 lớp học của một trường có từ 50-60 học sinh/lớp. Vì phải kiêm nhiệm giảng dạy nhiều lớp, giáo viên không thể nhớ hết năng lực rèn luyện, học tập của tất cả học sinh trong cùng một lớp học.
Tại Trường Tiểu học thị trấn Thanh Miện (Hải Dương), một giáo viên dạy Mỹ thuật cho 23 lớp phải nhận xét 789 học sinh, các giáo viên dạy các môn: Nhạc, mỹ thuật, thể dục thường dạy nhiều lớp và phải nhận xét từ 200-300 học sinh trở lên cho nên rất vất vả và trên thực tế họ cũng không có điều kiện theo dõi từng học sinh.
Còn về phía Ban giám hiệu nhà trường cũng rất khó khăn trong việc quản lý hồ sơ, học bạ của tất cả các khối lớp và nhiều môn học khác nhau.
Với những bất cập sau hơn 1 năm thực hiện Thông tư 30 qua khảo sát của Hội Khoa học Tâm lý Giáo dục Việt Nam, một lần nữa khiến ngành Giáo dục cần nghiêm túc nhìn lại những mặt tích cực và hạn chế của việc thực hiện việc không chấm điểm học sinh cấp Tiểu học để có những giải pháp thay đổi sát sao hơn trong quá trình giảng dạy, đánh giá của giáo viên đối với học sinh. Đặc biệt nhất là làm sao để giáo viên không cảm thấy “mệt mỏi”, quá tải khi đánh giá, nhận xét và “ôm đồm” nhiều loại giấy tờ, sổ sách./.