Chiến dịch Huế - Đà Nẵng: Đòn quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam năm 1975

VOV.VN - Thắng lợi ban đầu của quân và dân ta ngay trong những ngày đầu của chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng, chính là căn cứ để ngày 25/3, Bộ Chính trị đưa ra quyết định: Giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975.

Cách đây 50 năm (05/3/1975) Chiến dịch Huế - Đà Nẵng được mở màn. Qua 3 chiến dịch nhỏ là Chiến dịch Trị Thiên - Huế (5/3-26/3), Chiến dịch Nam Ngãi (10/3-26/3) và Chiến dịch Đà Nẵng (26/3-29/3) quân và dân ta đã đập tan âm mưu co cụm chiến lược của địch, làm thay đổi tương quan so sánh lực lượng về mặt chiến lược, tạo ra sự nhảy vọt về cục diện chiến tranh, mở ra thế và lực mới để quân và dân ta đi đến trận quyết chiến cuối cùng – Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân sự kiện này, phóng viên VOV phỏng vấn Tiến sĩ Sử học Phạm Minh Thế, Khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

PV: Thưa ông, Chiến dịch tiến công giải phóng Huế - Đà Nẵng, đặc biệt là Chiến dịch giải phóng Đà Nẵng chúng ta chỉ có 4 ngày để làm công tác chuẩn bị. Và Chiến dịch giải phóng Đà Nẵng diễn ra trong thời gian rất ngắn, 11 ngày, chúng ta đã giải phóng thành phố Huế và Đà Nẵng. Vậy, ông có cho rằng, việc chúng ta chuẩn bị cho Chiến dịch trong thời gian gấp như vậy là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, quan trọng để làm nên chiến thắng?

TS Phạm Minh Thế: Vâng, tôi nghĩ thế này, nhận định đó là đúng, nhưng cũng cần phải thấy rằng, dù được chuẩn bị gấp, nhưng đó là sự chuẩn bị của tinh thần chủ động, quyết đánh, quyết thắng, đánh chắc thắng trong đường lối kháng chiến, chiến tranh của Đảng và Quân ủy Trung ương. Đó không phải là sự chuẩn bị gấp theo nghĩa bột phát, mà không có sự chuẩn bị gì trước đó cả. Trước đó, hội nghị của Bộ Chính trị họp đợt 1 (từ ngày 30/9 đến 8/10/1974) và đợt 2 (từ ngày 8/12/1974-7/1/1975) đã bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tại cuộc họp này, Bộ Tổng tham mưu đã khẳng định phải có 3 đòn tiến công để đánh vào Sài Gòn chứ không thể đánh thẳng từ Tây Nguyên vào Sài Gòn. Khi Bộ Chính trị đang họp thì quân và dân ta ở miền Nam đã giành thắng lợi lớn ở Phước Long, vào ngày 6/1/1975. Quân đội tay sai Việt Nam Cộng hòa đã không có khả năng tái chiếm lại Phước Long. Đây chính là căn cứ để Bộ Chính trị đưa ra quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trong 2 năm 1975-1976.

Bộ Chính trị nêu rõ: trong năm 1975, tranh thủ bất ngờ tấn công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Và nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975. Như thế là về tổng thể, ta đã có sự chuẩn bị để phát động những đợt tiến công lớn và giành thắng trong năm 1975. Và do đó, thắng lợi ở Phước Long và Tây Nguyên chính là căn cứ để ngày 18/3 Bộ Chính trị đưa ra quyết định: Giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975. Và thắng lợi ban đầu của quân và dân ta ngay trong những ngày đầu của chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng, chính là căn cứ để ngày 25/3, Bộ Chính trị đưa ra quyết định: Giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975.

Như thế, sự toàn thắng của Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng dù được chuẩn bị gấp, nhưng đã nằm trong kế hoạch tổng thể của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương.

PV: Ngay trong đêm 29/3, khi Đà Nẵng được giải phóng, các hãng tin phương Tây đã bình luận “Việc Đà Nẵng thất thủ, kể từ đây sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn chỉ tính bằng ngày, bằng giờ”. Vì sao khi Đà Nẵng thất thủ lại dẫn đến sự sụp đổ, hoang mang rệu rã của chính quyền VNCH như vậy thưa ông?

TS Phạm Minh Thế: Đà Nẵng là một căn cứ quân sự liên hợp hải, lục, không quân hiện đại và mạnh vào bậc nhất ở miền Nam của chính quyền VNCH. Lực lượng của địch trên chiến trường khoảng 75.000 tên. Đây là cơ sở để Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố "tử thủ" Đà Nẵng bằng mọi giá. Nguyễn Văn Thiệu cho rằng, sau giải phóng Huế, nếu ta muốn tiến công Đà Nẵng thì phải mất ít nhất một tháng chuẩn bị. Như thế có thể thấy, Nguyễn Văn Thiệu hoàn toàn tin tưởng vào tướng Ngô Quang Trưởng và quân lực Việt Nam Cộng hòa tại đây.

Do đó, khi mặt trận Đà Nẵng thất thủ thì sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng hòa đúng là chỉ còn tính bằng ngày, bằng giờ. Bởi vì, sự thất thủ ở Đà Nẵng, nhất là những lời tuyên bố “tử thủ” ở Huế, ở Đà Nẵng rồi lại bỏ rơi binh lính, bỏ rơi chiến trường và bỏ chạy của các tướng lĩnh như Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Duy Hinh và trước đó là Phạm Văn Phú ở Ban Mê Thuột đã làm cho tinh thần chiến đấu, phản kháng của quân đội VNCH trên toàn miền Nam rệu rã, hoang mang đến cực độ. Họ không còn tinh thần chiến đấu nữa. Đó là sự suy sụp lớn về tinh thần, đẩy quân đội VNCH đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn không gì có thể cứu vãn nổi.

PV: Trong Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chúng ta thấy có sự hiệp đồng tác chiến rất cao giữa các quân binh chủng. Đặc biệt là có sự nổi dậy, hỗ trợ tác chiến, bao vây đánh địch của quần chúng nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương. Điều này khiến cho địch đi đến đâu cũng bị chặn đánh. Đó là một bài học kinh nghiệm về đường lối chiến tranh nhân dân mà chúng ta rất cần nghiên cứu để vận dụng và phát huy trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc hiện nay….

TS Phạm Minh Thế: Đường lối chiến tranh nhân dân và sức mạnh hiệp đồng tác chiến chính là nền tảng, là nguồn lực để quân và dân ta giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng. Ta thấy trong cả hai chiến dịch Trị Thiên - Huế và chiến dịch Đà Nẵng, đều có sự hiệp đồng tác chiến rất cao giữa các quân binh chủng. Đặc biệt là có sự nổi dậy, hỗ trợ tác chiến, bao vây đánh địch của quần chúng nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương. Điều này đã khiến địch đi đến đâu cũng bị chặn đánh, bị bao vây và buộc phải co cụm lại Huế, Đà Nẵng, tạo cơ hội để các binh chủng chủ lực của ta vây ráp và tiêu diệt bằng đòn tấn công tổng lực quyết định. Chính đường lối chiến tranh nhân dân đã tạo nên sức mạnh hiệp đồng tác chiến, nó không chỉ là sự hiệp đồng tác chiến của các quân binh chủng chính quy tập trung, mà còn là sự hiệp đồng tác chiến của bộ đội chủ lực với các lực lượng vũ trang địa phương tại chỗ, hiệp đồng giữa quân và dân trong tổng tiến công và nổi dậy. Cho nên, đây là bài học quý giá nhất của chiến dịch này.

PV: Sau khi mất Tây Nguyên, thế phòng thủ chiến lược của địch bị rung chuyển nghiêm trọng. Nhận thấy đây là thời cơ để mở một cuộc tấn công mới ở duyên hải Trung Trung bộ, nên Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch Huế-Đà Nẵng lấy tên là “Mặt trận 475”. Như vậy là chúng ta đã chủ động tạo ra thời cơ, nắm lấy thời cơ và chớp thời cơ để giành thắng lợi. Theo ông, điều này có ý nghĩa như thế nào trong tình hình hiện nay, khi chúng ta đang chuẩn bị bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc?

TS Phạm Minh Thế: Chúng ta biết rằng, gần đây Tổng Bí thư Tô Lâm đã đưa ra chỉ lệnh là chúng ta phải bước vào một cái kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Và Đại hội XIV tới đây được coi là Đại hội hoạch định đường đối để chúng ta bước vào kỷ nguyên mới. Nhưng kỷ nguyên mới của chúng ta như Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã chỉ ra là nó được triển khai trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp. Thế thì chúng ta phải nắm bắt được cả những cơ hội, những cái thời cơ mà bối cảnh quốc tế thuận lợi tạo ra cho chúng ta. Nhưng đồng thời chúng ta cũng lại phải đối phó với cả những thách thức của tình hình quốc tế nó đặt ra đối với chúng ta. Và như thế thì sự chủ động nắm bắt thời cơ, tạo thời cơ, nắm lấy vận hội mới để vững vàng bước vào kỷ nguyên mới và giành thắng lợi trong cái kỷ nguyên vươn mình này là điều vô cùng quan trọng.

PV: Vâng, cảm ơn ông đã trả lời phỏng vấn!

Sau 50 năm giải phóng Đà Nẵng: Kỳ vọng vào những thể chế kinh tế mới mẻ

VOV.VN - Sau 50 năm giải phóng, TP Đà Nẵng có những chủ trương, chính sách sáng tạo mang tính đột phá, tiên phong trong lĩnh vực kinh tế và phát triển đô thị. Bước vào kỷ nguyên mới, việc hình thành Khu Thương mại tự do và Trung tâm Tài chính khu vực tại Đà Nẵng được xem là động lực mới cho thành phố tăng trưởng nhanh.

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên

Tin liên quan

Nghệ thuật quân sự đặc sắc trong Chiến dịch Tây Nguyên: Nghệ thuật nghi binh
Nghệ thuật quân sự đặc sắc trong Chiến dịch Tây Nguyên: Nghệ thuật nghi binh

VOV.VN - Trung tướng Phan Anh Việt, nguyên Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng cho rằng, nghệ thuật nghi binh trong Chiến dịch Tây Nguyên là ví dụ minh chứng điển hình về nghệ thuật quân sự đặc sắc của dân tộc Việt Nam, lấy yếu thắng mạnh, tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu, đánh vào nơi địch sơ hở, không phòng bị.

Nghệ thuật quân sự đặc sắc trong Chiến dịch Tây Nguyên: Nghệ thuật nghi binh

Nghệ thuật quân sự đặc sắc trong Chiến dịch Tây Nguyên: Nghệ thuật nghi binh

VOV.VN - Trung tướng Phan Anh Việt, nguyên Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng cho rằng, nghệ thuật nghi binh trong Chiến dịch Tây Nguyên là ví dụ minh chứng điển hình về nghệ thuật quân sự đặc sắc của dân tộc Việt Nam, lấy yếu thắng mạnh, tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu, đánh vào nơi địch sơ hở, không phòng bị.

Chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu vào rạng sáng 4/3/1975
Chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu vào rạng sáng 4/3/1975

VOV.VN - Cách đây tròn 50 năm, chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu vào rạng sáng ngày 4/3/1975 với các trận đánh cắt đường 19 và 14.

Chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu vào rạng sáng 4/3/1975

Chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu vào rạng sáng 4/3/1975

VOV.VN - Cách đây tròn 50 năm, chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu vào rạng sáng ngày 4/3/1975 với các trận đánh cắt đường 19 và 14.