Nợ công Việt Nam: Nguy cơ vỡ nợ thấp nhưng vẫn là vấn đề cấp bách
VOV.VN - Theo phân tích của BIDV, khả năng vỡ nợ của Việt Nam là khá thấp, tuy nhiên, trên thực tế, nợ công vẫn đang là vấn đề cập bách.
Theo Trung tâm Nghiên cứu của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), quy mô nợ công hiện nay đang áp sát ngưỡng kiểm soát do Quốc hội đề ra và đặt ra thách thức trong việc đảm bảo an toàn nợ công nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Có thể nợ công/GDP của Việt Nam đã vượt mức 100%
Theo phân tích của BIDV, trong giai đoạn 2011- 2015, nợ công gia tăng nhanh chóng với mức 16,7%/năm. Cuối năm 2015, về số tuyệt đối, dư nợ công lên đến 2.608 nghìn tỷ đồng, gấp 1,9 lần so với cuối năm 2011 (1.393 nghìn tỷ đồng). Về số tương đối, cuối năm 2015, nợ công/GDP ở mức 62,2%, áp sát ngưỡng kiểm soát 65% của Quốc hội.
Theo World Bank, tỉ lệ nợ trên GDP của Việt Nam trong năm 2016 sẽ ở mức 63,8% trước khi tăng lên 64,4% vào năm 2017 và 64,7% vào năm 2018. Hiện nay ổn định và bền vững kinh tế vĩ mô Việt Nam được duy trì về cơ bản, tuy nhiên tình trạng nợ công tăng nhanh trong khi dự trữ ngoại tệ thấp (và đang có xu thế giảm) đang là lý do gây quan ngại.
Đáng lưu ý, theo nhiều chuyên gia, quy mô nợ công thực tế có thể đã cao hơn so với mức công bố do cách thức xác định nợ công của Việt Nam và một số tổ chức quốc tế uy tín có sự khác biệt. Căn cứ theo tiêu chuẩn quốc tế, nhiều chuyên gia ước tính tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã vượt mức 100%.
Nhiều rủi ro
Trong bối cảnh nợ công gia tăng như hiện nay, Việt Nam lại gặp khó trong quản lý nợ công về cơ cấu và kỳ hạn. Bởi theo BIDV, trước đây, nợ công hầu hết là nợ nước ngoài hay vốn vay ODA với lãi suất từ 1% đến dưới 3%. Từ năm 2010, Việt Nam gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình nên nợ nước ngoài có mức độ ưu đãi giảm dần. Vì vậy, nợ công dịch chuyển sang nguồn vay trong nước, tăng từ 40% năm 2011 lên 57,1% năm 2015.
Các chuyên gia của BIDV cho rằng, hiện nay, theo các Tổ chức quốc tế và trong nước, khả năng vỡ nợ của Việt Nam là khá thấp. Tuy nhiên, trên thực tế, nợ công vẫn đang là vấn đề cập bách. Thứ nhất, chỉ tiêu nợ phải trả (nợ gốc và lãi) có nguy cơ tiến sát vượt ngưỡng cảnh báo. Thứ hai, nghĩa vụ trả nợ tăng nhanh trong khi nguồn trả nợ công không bền vững. Thứ ba, tác động tiêu cực của nợ công với nền kinh tế là các khoản lãi và một phần nợ gốc phải trả trong ngắn hạn đang ngày càng tăng cao, gây sức ép lên cân bằng NSNN. Điều này khiến quy mô nợ công tăng, lãi suất bị đẩy đi lên cao, gây ra khó khăn cho DN, từ đó làm giảm nguồn thu của NSNN để thanh toán các khoản vay.
Phải giữ bội chi ngân sách đảm bảo dưới 5% GDP
Theo khuyến nghị của WB và IMF, Việt Nam cần xây dựng và công bố kế hoạch tài khóa trung hạn nhằm cải thiện công tác quản lý ngân sách và nợ công theo hướng bền vững.
Đề xuất thành lập Ủy ban giám sát và kiểm soát nợ công
BIDV đề xuất thành lập Ủy ban giám sát và kiểm soát nợ công trực thuộc Quốc hội có chức năng: Giám sát các vấn đề nợ công và ngân sách nhà nước; Giám sát, chỉ đạo hoạt động và sự phối hợp của các đơn vị liên quan tới các vấn đề trên; Cấp phép và giám sát hoạt động của các cơ quan chuyên môn cao được phép cung cấp dịch vụ tư vấn và đấu thầu cho dự án dùng vốn nợ công; Tham mưu cho Quốc hội về việc Ban hành Luật, trong đó có quy định về đãi ngộ/chế tài đối với cá nhân liên quan tới hoạt động quản lý, sử dụng và giám sát nợ công; Phê duyệt và giám sát các quyết định về NSNN, khoản vay và cho vay từ nguồn nợ công với một giá trị tối thiểu cho trước; dưới mức ngưỡng này, BTC tự xử lý.../.
Đặc biệt, bội chi ngân sách đảm bảo dưới 5% GDP. Xây dựng định mức tiết kiệm chi phí thường xuyên, trong đó chi cho hành chính sự nghiệp từ ngân sách Trung ương tới địa phương tiết kiệm từ 8-10%/năm.
Và đến năm 2020, tỷ lệ nợ công/GDP là dưới 60%, các chỉ tiêu nợ Chính phủ và nợ nước ngoài/GDP được kiểm soát tốt và có bước đệm để duy trì dưới ngưỡng kiểm soát 50%. Phấn đấu giảm tỷ trọng chi thường xuyên xuống khoảng 58% tổng chi NSNN, tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển chiếm trong tổng chi NSNN đạt khoảng 19-20% để có nguồn thu.
Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (không kể cho vay lại)/ thu NSNN; và nghĩa vụ trả nợ nước ngoài/ tổng giá trị xuất khẩu cùng dưới 25%. Dự trữ ngoại hối/ tổng dư nợ nước ngoài đạt tối thiểu 200% hoặc tối thiểu 3 tháng kim ngạch nhập khẩu. Bội chi ngân sách đảm bảo dưới 5% GDP, định mức tiết kiệm chi phí thường xuyên cho hành chính sự nghiệp từ ngân sách Trung ương tới địa phương từ 5-8%/năm./.