WB nâng dự báo tăng trưởng năm nay của Việt Nam lên 6%
Thông tin được Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra tại buổi họp báo công bố Báo cáo cập nhật kinh tế khu vực Đông Á – Thái Bình Dương ngày 13/4.
Báo cáo Cập nhật Kinh tế Khu vực Đông Á-Thái Bình Dương do Ngân hàng Thế giới vừa công bố có đánh giá: Sau một số khó khăn hồi giữa năm 2014, kinh tế Việt Nam đã khởi sắc trở lại và tăng trưởng cuối năm đã vượt mức kỳ vọng, song kết quả đạt được vẫn dưới mức tiềm năng.
Đặc biệt, WB dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2015 của Việt Nam có thể đạt 6,0%. Mức này cao hơn so với mức 5,6% mà WB đưa ra vào đầu năm nay. Sang năm 2016, tăng trưởng được dự báo đạt mức 6,2%. Trong khi đó, lạm phát sẽ chỉ vào khoảng 4,5% năm 2015 và 5% năm 2016.
Sự khởi sắc kinh tế được dẫn dắt bởi nông nghiệp và chế tạo
Cốt lõi của sự khởi sắc này, theo WB, các chỉ số kinh tế vĩ mô căn bản đã được cải thiện, FDI trong lĩnh vực chế tạo và xuất khẩu của khu vực FDI tăng vững chắc, và môi trường kinh doanh đã có những cải cách quan trọng. Tỷ lệ nghèo tiếp tục giảm đáng kể, tới một mức độ mà nghèo cùng cực hầu như đã được xóa bỏ.
WB chỉ rõ dấu hiệu khởi sắc: Tăng trưởng GDP đạt 7% trong quý IV năm 2014, góp phần đưa tỷ lệ tăng trưởng cả năm lên mức 6% - tốc độ tăng nhanh nhất kể từ 2011. Sự khởi sắc trong nền kinh tế được dẫn dắt bởi các ngành nông nghiệp và chế tạo. Khu vực dịch vụ tăng trưởng 6%, cao hơn một chút so với năm 2013. Kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dưới mức tiềm năng, do những cải cách cơ cấu diễn ra ì ạch, đặc biệt trong khu vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước.
Đặc biệt, theo WB, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam đã đem lại kết quả công bằng, làm giảm đáng kể tình trạng nghèo và đem lại sự thịnh vượng chung.
Kinh tế vĩ mô ổn định hơn là nền tảng cho sự tăng trưởng trong những năm gần đây. Lạm phát CPI đã ổn định, bình quân ở mức 4,1% trong năm 2014 (mức thấp nhất kể từ năm 2003), nhờ vào sự suy yếu trong giá cả lương thực và năng lượng trên toàn cầu. Xuất khẩu tăng vững chắc, dòng FDI và kiều hối được duy trì và nhập khẩu yếu đã giúp cải thiện cán cân vãng lai, tạo điều kiện tăng dự trữ ngoại hối lên mức 3 tháng nhập khẩu trong năm 2014, cao hơn mức 2,4 tháng nhập khẩu hồi tháng 12 năm 2013.
“Những diễn biến tích cực này đã góp phần cải thiện xếp hạng tín dụng quốc gia và giúp Việt Nam phát hành thành công một tỷ USD trái phiếu ra thị trường quốc tế với các điều kiện thuận lợi”- WB đánh giá.
Kinh tế vẫn phát triển dưới mức tiềm năng
Mặc dù tăng trưởng đã được cải thiện, kinh tế Việt Nam vẫn phát triển dưới mức tiềm năng do sự ì ạch trong những cải cách cơ cấu và sự bất trắc trên toàn cầu. Hơn thế nữa, Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều câu hỏi quan trọng như làm thế nào để kiềm chế mức nợ công đang tăng lên, để chứng tỏ quyết tâm cao hơn trong việc thực hiện chương trình cải cách đầy tham vọng của chính phủ (đặc biệt trong khu vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước), và làm thế nào để đảm bảo một môi trường thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp trong nước.
Bên cạnh đó, nợ công gia tăng đang trở thành một mối quan ngại đối với chính phủ. Nợ công gia tăng chủ yếu do nhu cầu bù đắp thâm hụt ngân sách, phần lớn huy động từ nguồn vốn nội địa. Tổng dư nợ công và nợ được bảo lãnh công là 61% GDP tính đến cuối năm 2014, trong đó nợ trong nước đã tăng từ 23% GDP năm 2010 lên 32% năm 2014. Các nghĩa vụ nợ dự phòng trong khu vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước đang gia tăng áp lực đối với sự bền vững nợ công.
Thâm hụt tài khóa tăng từ 1,1% GDP trong năm 2011 lên mức bình quân 5,9% trong giai đoạn 2012-14, phản ánh chính sách tài khóa nghịch chu kỳ. Biện pháp kích thích tài khóa được thể hiện ở cả sự sụt giảm thu ngân sách lẫn tăng chi thường xuyên.
Một trong những hạn chế nữa được WB chỉ ra là: Mặc dù đã có những khởi động ban đầu nhưng công cuộc đổi mới khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn diễn ra chậm chạp hơn so với các chỉ tiêu kế hoạch. 148 DNNN đã được cổ phần hóa trong năm 2014 - gấp đôi con số năm 2013, nhưng vẫn thấp hơn chỉ tiêu cổ phần hóa 200 DNNN trong năm 2014.
Tuy nhiên, WB cảnh báo rằng, chỉ cổ phần hóa các DNNN là chưa đủ. Những cải cách này phải tập trung vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động và mức độ cạnh tranh trong khu vực doanh nghiệp, với những biện pháp có trọng tâm nhằm củng cố quản trị doanh nghiệp và thực thi hợp đồng, cũng như giảm các rào cản gia nhập thị trường. Phải có sự chú trọng đặc biệt đến việc thúc đẩy một sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp dân doanh.
Chính sách tiền tệ được điều hành theo định hướng nới lỏng trong năm 2014. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng bị kìm hãm bởi bảng cân đối tài sản yếu kém của các ngân hàng, những quan ngại về sức khỏe tài chính của người vay và cầu tín dụng yếu do niềm tin của nhà đầu tư và người tiêu dùng còn thấp.
Cơ hội có thể đến từ các hiệp định thương mại
Dự báo về triển vọng kinh tế Việt Nam, WB cho hay, các rủi ro đối với triển vọng trung hạn vẫn chủ yếu mang tính tiêu cực. Sự suy yếu của giá cả mặt hàng gạo và các nông sản khác trên toàn cầu sẽ tác động tiêu cực đến thu nhập và tiêu dùng của các hộ gia đình nông thôn, làm nới rộng khoảng cách thành thị-nông thôn.
Giá dầu giảm cũng có thể gia tăng áp lực đối với thu ngân sách. Đầu tư tư nhân trong nước vẫn còn dè dặt bởi niềm tin của doanh nghiệp còn thấp. Ở phương diện kinh tế đối ngoại, tăng trưởng toàn cầu vẫn ì ạch và còn nhiều bất trắc. Điều này tạo ra những rủi ro đối với xuất khẩu và dòng FDI chảy vào Việt Nam. Yếu tố thuận lợi là các hiệp định thương mại đang đàm phán có thể đem lại cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam vươn ra những thị trường bên ngoài rộng lớn hơn và giàu có hơn.
Vì thế, WB khuyến cáo: Những cải cách trong nước, bao gồm việc củng cố tài khóa trung hạn, tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh và những nỗ lực đổi mới khu vực ngân hàng và DNNN với quyết tâm cao hơn, rõ ràng hơn, sẽ phát những tín hiệu quan trọng đến các nhà đầu tư trong nước và quốc tế và đặt nền móng cho tăng trưởng mạnh mẽ hơn trong tương lai./.